Hệ thống và phân loại từ vựng tiếng Nhật

Hệ thống từ vựng

Hệ thống từ vựng Nhật Bản khá phong phú, đa dạng. Trong Daijiten (Đại từ điển) do NXB Heibon xuất bản có khoảng 70 vạn từ. Từ điển Kokugo jiten (Quốc ngữ từ điển) của Nhà xuất bản Iwanami có 5 vạn 7 ngàn từ.

Phân loại từ vựng

Nếu phân chia theo nguồn gốc sinh ra từ vựng tiếng Nhật, ta có được nhiều nhóm bao gồm wago (和語, “hòa ngữ”), kango (漢語, “hán ngữ”), gairaigo (外来語, “ngoại lai ngữ”), cũng như một loại từ vựng pha trộn các kiểu trên với nhau gọi là konshugo (混種語, “hỗn lai ngữ”). Cách phân loại của từ theo nguồn gốc như vậy gọi là goshu (語種, “ngữ chủng”).

Hòa ngữ là bộ từ vựng Yamato (大和言葉, “từ vựng Đại Hòa”) có từ xưa của Nhật Bản, Hán ngữ (từ Hán) là những từ vựng sử dụng âm Hán tự du nhập từ Trung Quốc, Ngoại lai ngữ (từ nước ngoài) là từ vựng được du nhập từ các ngôn ngữ khác ngoài Trung Quốc. Mặc dù vậy, từ ume (ウメ, “mận”), ví dụ, có khả năng là từ mượn từ tiếng Trung Quốc nguyên thủy nên không phải Hòa ngữ, cho thấy biên giới của Ngữ chủng đến nay vẫn chưa rõ ràng.

Hòa ngữ chiếm một phần hạt nhân của từ vựng tiếng Nhật. Những từ vựng cơ sở như kore (これ, “cái này”), sore (それ, “cái kia”, kyō (きょう, “hôm nay”), asu (あす, “ngày mai”), watashi (わたし, “tôi”), anata (あなた, “bạn” ngôi thứ hai), iku (行く, “đi”), kiru (来る, “đến”), yoi (良い, “tốt”), warui (悪い, “xấu”) hầu hết là Hòa ngữ. Ngoài ra, các trợ từ như te「て」, ni「に」, wo 「を」, wa 「は」 và đại bộ phận trợ động từ và các từ phụ thuộc cần thiết để tạo thành câu đều là Hòa ngữ.

Mặt khác, Hán ngữ và Ngoại lai ngữ được dùng nhiều để biểu thị khái niệm trừu tượng và khái niệm mới sinh ra từ sự phát triển của xã hội. Cũng có những tên sự vật nguyên thủy là Hòa ngữ thì đã chuyển sang Hán ngữ và Ngoại lai ngữ. Meshi (めし, “bữa ăn” hay “cơm”) chuyển thành gohan (御飯) hay raisu (ライス); yadoya (やどや, “nhà nghỉ”) thành ryokan (旅館) hay hoteru (ホテル) là những ví dụ tiêu biểu cho sự thay đổi này.

Đối với những từ đồng nghĩa nhưng thay đổi Ngữ chủng như vậy, có một sự khác biệt nhỏ về ý nghĩa – sắc thái, cụ thể là Hòa ngữ thì tạo ấn tượng đơn giản, suồng sã, Hán ngữ thường tạo ra ấn tượng chính thức, lễ nghi, còn Ngoại lai ngữ thì mang ấn tượng hiện đại.

Một cách tổng quát, có thể nói nghĩa của Hòa ngữ thì rộng, còn nghĩa của Hán ngữ thì hẹp. Một ví dụ, chỉ có một từ Hòa ngữ là shizumu (しづむ) hay shizumeru (しずめる) có nghĩa là “kìm nén”, tương ứng với nhiều thành phần từ ghép của hán ngữ như 「沈」「鎮」「静」. Ý nghĩa đa dạng về cách hiểu của shizumu chỉ có thể phân biệt được khi viết xuống sử dụng Hán tự, và có thể là một trong các chữ 「沈む」「鎮む」「静む」.

Ý nghĩa biểu thị của Hán ngữ được ghép lại từ hơn hai chữ có tính phân tích, tức là nghĩa của nó có thể suy đoán từ nghĩa của từng từ. Ví dụ, chữ jaku (弱, “nhược”) khi ghép với các chữ sei (脆, “thúy”, “dễ vỡ”), hin (貧, “bần”, “nghèo”), nan (軟, “nhuyễn”, “mềm, ủ rủ”), haku (薄, “bạc”, “ốm yếu”), tạo thành từ vựng có tính phân tích – giải thích như zeijaku (脆弱, “dễ vỡ”), hinjaku (貧弱, “nghèo”, “xơ xác”), nanjaku (軟弱, “ốm yếu”), hakujaku (薄弱, “yếu đuối”).

Hán ngữ, với những từ như gakumon (学問, “học vấn”), sekai (世界, “thế giới), hakasei (博士, “bác sỹ”), là những từ vựng được du nhập từ Trung Quốc trước đây, chiếm đại bộ phận từ vựng tiếng Nhật, nhưng từ xa xưa đã có nhiều từ Hán ngữ do người Nhật tạo ra (waseikango, 和製漢語, “Hòa chế Hán ngữ”).

Ngay cả ngôn ngữ hiện đại như kokuritsu (国立, “kiều bào”), kaisatsu (改札, “soát vé”), chakuseki (着席, “chỗ ngồi”), kyoshiki (挙式, “tổ chức buổi lễ”) hay sokutō (即答, “trả lời ngay”) cũng dùng nhiều Hòa chế Hán ngữ.

Ngoại lai ngữ ngoài những từ đang được sử dụng với ý nghĩa gốc của nó, thì trong tiếng Nhật, việc có sự thay đổi ý nghĩa gốc của từ là không ít. “Claim” trong tiếng Anh có nghĩa là “đòi hỏi quyền lợi tự nhiên”, còn trong tiếng Nhật kurēmu 「クレーム」 mang nghĩa là “than phiền”.

Tiếng Anh, “lunch” có nghĩa là “bữa ăn trưa”, thì ranchi 「ランチ」 trong nghĩa tiếng Nhật khi nhắc đến ăn uống thì có nghĩa là một kiểu ăn (“tiệc trưa”).

Sự kết hợp các Ngoại lai ngữ như aisu kyandē 「アイスキャンデー」 (“ice” + “candy”, “kem cây”) hay saido mirā 「サイドミラー」 (“side” + “mirror”, “kính chắn gió”), tēburu supīchi 「テーブルスピーチ」 (“table” + “speech”, “cuộc chuyện trò sau bữa ăn tối”) được sáng tạo ra từ nghĩa gốc tiếng Nhật.

Ngoài ra, cũng có sự sáng tạo những từ mà dạng từ liên quan không hề là từ nước ngoài như naitā 「ナイター」 (“trò chơi dưới ánh đèn”, chuyển tự nighter), panerā 「パネラー」 (“người trả lời trong các chương trình trò chơi dạng hỏi đáp trên ti vi”, chuyển tự paneler), purezentētā 「プレゼンテーター」 (“người diễn thuyết”, chuyển tự presentator).

Thuật ngữ chung để gọi dạng từ này là waseiyōgo (和製洋語, “tiếng Nhật tạo ra từ thành phần tiếng nước ngoài”), nếu từ tiếng Anh thì đặc biệt gọi là waseieigo (和製英語, “tiếng Nhật tạo ra từ thành phần tiếng Anh”).

Hỗ trợ học Hán Tự

Bài học liên quan

Bài học xem nhiều