“Nhóm từ thân mật” đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất

Ore (俺): được nhiều nam giới sử dụng đối với người đồng đẳng hay vai vế thấp hơn mình, mang tính thân mật hay cọc cằn. Về sắc thái, từ này tương đương với “tao” trong tiếng Việt và không được sử dụng khi đứng trước đám đông, phát biểu trong hội nghị. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều thanh nhiên sử dụng từ này trong những tình huống cần lễ nghi trang trọng. Ore là từ biến đổi của onore (己), trước thời Kamakura, nó là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai nhưng về sau trở thành ngôi thứ nhất. Đến thời Edo, nó được cả nam nữ, không phân biệt sang hèn đều sử dụng. Nhưng sau thời Meiji thì nó trở thành từ độc chiếm của nam giới, ngoại trừ vùng Đông Bắc vẫn còn sử dụng nó như một từ địa phương.

Washi (儂, 私): thường thấy trong tiểu thuyết, phim ảnh và được nam giới lớn tuổi sử dụng. Thời cận đại, nữ giới vẫn dùng từ này với đối phương trong trường hợp thân thiết, nhưng ngày nay nó trở thành từ độc chiếm của nam giới khi nói với người đồng đẳng hoặc kém vai vế. Washi còn là từ địa phương tại các tỉnh Aichi, Gifu và phía Tây vùng Hokuriku, nam giới không nhiều tuổi cũng sử dụng từ này. Tại những vùng này thì thanh niên, trẻ con cũng sử dụng washi để chỉ bản thân, nhưng gần đây do ảnh hưởng của phương tiện truyền thông mà giới trẻ đã chuyển sang dùng “ore”.

Atashi (あたし): cách nói biến âm mang tính suồng sả của watakushi, ngày nay thường được nữ giới sử dụng trong tình huống thân mật. Trong những tình huống trang trọng, nữ giới vẫn phát âm rõ ràng là watashi. Atashi ban đầu được nam nữ lưỡng dụng, nhất là trong giới thương nhân và thợ thủ công, nhưng về sau trở thành từ độc chiếm của nữ giới. Ngày nay, các diễn viên kể chuyện hài Rakugo vẫn sử dụng từ này. Sắc thái từ này tương tợ “tôi” thành “tui” trong tiếng Việt.

Atai (あたい): thể biến âm và suồng sả hơn của atashi. Đây là từ độc chiếm của nữ giới và mang sắc thái cộc cằn, được phụ nữ và trẻ nhỏ ở Tōkyō sử dụng. Hiện tại, trong thường nhật hầu như không còn ai sử dụng từ này mà chỉ còn thấy trong tiểu thuyết, phim ảnh và trong tiếng địa phương ở Kagoshima.

Watai (わたい): biến âm của watashi, tương tự như atai.

Wai, Wate, Ate (わい, わて, あて): được sử dụng ở vùng Kinki từ sau thời cận đại. Wai là từ rút gọn của washi, là từ độc chiếm của nam giới còn wate là dạng rút gọn của watai, ate lại là dạng rút gọn hơn nữa từ wate. Ate, Wate được dùng nhiều ở Kyōto không phân biệt nam phụ lão ấu. Ngày nay, chỉ còn một số ít người già vẫn còn sử dụng những từ này.

Wadasu (わだす): cách nói trại của watashi của miền Đông Bắc.

Adasu, Wasu (あだす, わす): cách nói trại của atashi, washi ở miền Đông Bắc.

Uchi (うち): được nữ giới miền Tây sử dụng nhiều. Tại Kyūshū (một phần), cả nam nữ đều dùng uchi để chỉ về mình.

Oira (己等): được nam giới sử dụng, mang tính địa phương. Khi làm nũng, cả nam và nữ đều dùng oira để chỉ về mình. Có những cách viết như 俺等 (đọc theo nguyên tắc là orera), 俺ら cũng đọc là oira nên rất dễ nhầm với orera (đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, số nhiều, bọn tao, chúng tao) nên gần đây không được sử dụng. Lưu ý là từ 己等 còn có cách đọc là u’nura, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, bọn mày, lũ chúng bây, lũ chúng mày, tụi bây…

Ora (俺ら): phái sinh từ oira, được sử dụng nhiều ở phía Bắc vùng Kantō.

Oi, oidon (おい, おいどん): được nam giới ở Kyūshū sử dụng, nhất là phía Nam vùng này. Trong hội thoại thường nhật, nam giới trẻ tuổi tự xưng là oi, còn nam giới có tuổi và trong số những người sinh trước Đệ nhị Thế chiến, phụ nữ vẫn dùng oidon khi tự xưng. Oi còn được dùng như đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, mang nghĩa “you”.

Khi gặp đám đánh nhau, cảnh sát thường nộ: oi! Kora! (おい!こら!). Thực chất câu này có nghĩa là: “này anh, chuyện gì vậy?” theo đúng nghĩa của vùng Kyūshū. Đầu thời Meiji, nhiều võ sĩ phiên Satsuma (thuộc vùng Kyūshū) được tuyển làm cảnh sát và họ vẫn thường hỏi câu này khi gặp đám đánh nhau. Dần dà, câu này trở nên phổ cập và mang ý nghĩa cảnh cáo, răn đe như ngày nay.

Ura (うら): từ địa phương của vùng Hokuriku, chủ yếu do nam giới sử dụng. Ngày xưa nữ giới cũng dùng ura để chỉ về mình.

Wa, Waa (わ, わー): từ địa phương vùng Tsugaru, nam nữ đều dùng. Tại tỉnh Ehime, từ này chủ yếu do nam giới có tuổi sử dụng và có khi là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai. Từ này được cho là biến thể của ware (ngã).

Wan, Waa (ワン, ワー): từ địa phương Okinawa, chủ yếu do nam giới dùng. Nữ giới Okinawa, nhất là người có tuổi thường sử dụng tên mình để chỉ về mình. Trong bài hát “Shimauta” của nhóm The Boom có câu: “wanku nu nadagwa” (わんくぬなだぐぁ) nghĩa là: nước mắt của tôi.

Bokuchan, bokuchin (ぼくちゃん, ぼくちん): từ được bé trai sử dụng khi làm nũng hay bông đùa.

Orecchi (おれっち): biến thể của ore, kiểu nói này do người sinh ra và được nuôi dưỡng ở Edo (Tōkyō thời cổ) sử dụng. Nó còn là biến thể của oretachi, ngôi thứ nhất số nhiều, mang nghĩa chúng ta, bọn ta. Orecchi thường được sử dụng tại trung tâm tỉnh Shizuoka.

Khuynh hướng trường âm: là khuynh hướng kéo dài âm a của các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, chẳng hạn: oryaa (おりゃあ), bokā (ぼかぁ), watashā (わたしゃ), atashā (あたしゃ), washā (わしゃあ), orā (おらぁ). Những từ này tương tự đại từ nguyên bản của chúng đi kèm với trợ từ.
Ví dụ: わたしの、わたしは、わたしが thành わたしゃ
Một câu trong bài hát “Itako no hanayome-san” (cô dâu vùng Itako): わたしゃ潮来の  水育ち (tôi là con người vùng sông nước)

Hỗ trợ học Hán Tự

Bài học liên quan

Bài học xem nhiều