[Kanji] Cách nhớ 214 bộ thủ nhanh nhất – Phần 6

Câu 51- 60 gồm 22 bộ :
夂 – 夊
自 – 鼻 – 耳 – 首
青 – 艹 – 色
豸 – 彑

香 – 米 – 屮 – 用

干 – 工

玉 – 貝
Đọc là:
51. TRỈ (夂) bàn chân, TUY (夊) rễ cây,
52. TỰ (自) từ, TỴ (鼻) mũi, NHĨ (耳) tai, THỦ (首) đầu.
53. THANH (青) xanh, THẢO (艹) cỏ, SẮC (色) màu,
54. TRĨ (豸) loài hổ báo, KỆ (彑) đầu con heo.
55. THỬ (鼠) là chuột, rất sợ mèo,
56. HƯƠNG (香) thơm, MỄ (米) gạo, TRIỆT (屮) rêu, DỤNG (用) dùng.
57. ĐẤU (斗) là cái đấu để đong,
58. Chữ CAN (干) lá chắn, chữ CÔNG (工) thợ thuyền.
59. THỊ (示) bàn thờ cúng tổ tiên,
60. NGỌC (玉) là đá quý, BỐI (貝) tiền ngày xưa.
Giải thích :
1. Bộ Trỉ (夂) vẽ hình 1 cái bàn chân đang đi xuống.
Vd : a) Giáng 降 gồm các tổ hợp nét : 阝(phụ : đồi cao), 夂 (trỉ : bàn chân), ヰcũng là hình vẽ của 1 bàn chân.
Một quả đồi (阝, phụ) và 2 bàn chân đi từ trên đồi xuống thì có nghĩa là “Giáng” (đi xuống). (Hình vẽ 2 bàn chân bên phải đã trải qua hàng nghìn năm biến đổi tự dạng, nên hơi khó nhận ra, bạn nào muốn coi diễn biến của hình vẽ này, xin tìm nguồn tư liệu “汉字演变五百例” của 李乐毅) .
b) Phùng 逢 : Gồm bộ 辶 (Sước), 夂 (Trỉ), 丰(Phong). Ban đầu viết như thế này 夆 (phong), Phùng nghĩa là gặp gỡ, muốn gặp được thì phải đi tới (bộ Trỉ, bàn chân) bên dưới là chữ Phong chỉ âm đọc, Phong biến âm thành “Phung” rồi “Phùng”. Sau đó người ta thêm bộ Sước vào cho rõ nghĩa hơn. (Sước là đi xa, ngụ ý hành động).
Bộ Tuy (夊) trông rất giống bộ Trỉ (夂), nên đôi khi người học dễ bị nhầm lẫn. Nhưng bạn chỉ cần để ý 1 chút là sẽ phân biệt được.
Vd : Chữ 麥 = 木+人+人+夊 . Chữ Mạch là cây lúa mạch, nên có chữ Mộc chỉ cây, hai chữ Nhân là vẽ 2 bông lúa nặng trĩu, bên dưới vẽ rễ cây lúa mạch.
2. Chữ Tự (自) ban đầu chính là vẽ cái mũi. Sau đó người ta mượn chữ “Mũi” này để chỉ nghĩa Tự như “Tự mình”. Vì vậy cần phải tạo ra 1 chữ khác chỉ cái mũi, chính là chữ Tỵ. (âm đọc cổ của chữ Tự 自 và Tỵ 鼻 gần giống nhau)
鼻(Tỵ) = 自 (tự) + 畀(tý). Chữ Tỵ = mũi được tạo mới là 1 chữ Hình thanh (bộ Tự bên trên chỉ nghĩa, chữ Tý bên dưới chỉ âm đọc)
畀Tý ghép bởi hai tổ hợp nét là 田(điền) và 廾(Củng). Tý nghĩa là đem cho. Bên trên vẽ bộ Điền 田, tượng trưng 1 gói quà, ta có thể coi như 1 chiếc bánh chưng cho dễ nhớ. Bên dưới vẽ hai bàn tay (bộ Củng 廾vẽ hai bàn tay chắp lại nâng một vật). Ngụ ý, đem quà đi tặng.
Bộ Nhĩ (耳) vẽ cái tai. Đã bị biến đổi tự dạng rất nhiều
Bộ Thủ (首)vẽ đầu con thú, có 2 sừng phía trên, khá giống đầu 1 con vật có sừng. Chú ý phân biệt với bộ Hiệt (頁, câu 14) vẽ đầu người, không có 2 sừng bên trên.
3. Bộ Thanh (青) nghĩa là màu xanh, ghép từ hai tổ hợp nét 生 và 丹. Chữ Hán cổ viết bên trên là Sinh (Sanh) chỉ âm đọc (Ghi chú : âm đọc Hán cổ và âm Hán hiện đại khác nhau, có lẽ thời cổ đại, chữ Sinh và chữ Thanh có âm đọc tương đối giống nhau). Bên dưới là Đan chỉ màu đỏ, ngụ ý màu xanh luôn đi đôi với màu đỏ, nay viết thành chữ nguyệt 月.
Bộ Thảo (艹) vẽ 2 ngọn cỏ, cổ văn (艸) và hiện nay (艹) đều dễ dàng nhận ra điều đó.
Bộ Sắc (色) trong màu sắc, vẽ con Kỳ nhông đuôi dài, 2 nét trên cùng là cái đầu con kỳ nhông, phần ở giữa vẽ cái thân con kỳ nhông, nét cong dưới cùng là cái đuôi con kỳ nhông. Vì con kỳ nhông thường thay đổi màu nhanh chóng, nên người Trung Quốc lấy hình dạng con vật này để chỉ nghĩa màu sắc.
4. Bộ Trĩ (豸, hoặc Sãi, Trãi) vẽ hình 1 con thú đuôi dài, bên trên là cái đầu có mõm nhọn, răng dài. có thể phân ra thành :
– Đầu con thú tượng hình bằng bộ nguyệt viết nghiêng
– Lưng và đuôi con thú là nét cong bao bên ngoài
– 4 chân con thú tượng hình bằng 2 nét cong bên trong (vì đây là hình vẽ con thú nhìn nghiêng)
Những loài thú dữ có xương sống thường dùng bộ Trĩ này để chỉ ý. Vd : 豹,豺,豼,貇,貅
Bộ Kệ (彑) vẽ cái đầu con heo, có mõm dài, rất khó nhận ra, nhưng ta có thể thấy tàn dư của nó trong các chữ Hán đang dùng ngày nay : 彖 [tuàn], âm Hán Việt là thoán, vốn là 1 loài heo rừng, sau mượn dùng làm chữ Soán trong kinh dịch.
5. Bộ Thử (鼠) là con chuột, cổ văn vẽ hình 1 con chuột, sau đó diễn biến thành chữ như ngày nay. Nếu bạn lấy chữ Thử tiểu triện quay ngược kim đồng hồ 90 độ, sẽ thấy khá giống 1 con chuột đang bò 鼠.
hiện nay, muốn nhớ được chữ này, bạn có thể nhớ theo cách sau : Thử thuộc bộ Cữu (臼 cối xay gạo). Con chuột “xay” gạo cũng khá dữ dội, cho nên lấy bộ Cữu (臼) tượng trưng cho cái đầu của nó. Phần bên dưới vẽ 3 nét dài 4 nét ngắn. 3 nét dài tượng trưng cho mình và đuôi con chuột, 4 nét ngắn tượng trưng cho 4 chân.
6. Bộ Hương (香) nghĩa là thơm, bên trên viết bộ Hòa (禾cây lúa), bên dưới viết bộ Cam (甘 nghĩa là ngọt ngào, sau biến thành chữ Viết 曰). Gộp 2 ý lại thành mùi bông lúa chín ngọt ngào và thơm tho. 香 = 禾 + 甘 = 禾 + 曰
Bộ Mễ (米) vẽ hình 1 bông lúa, sau có nghĩa là gạo. Trông hình dạng chữ khá giống bông lúa. Những chữ Hán có chứa bộ Mễ (米) thường chỉ về các loại hạt, hạt nhỏ, thậm chí nhỏ đến mức không nhìn thấy vd : 精, 氣
Bộ Triệt (屮) vẽ 1 ngọn cỏ, tượng trưng cho loài rêu, bộ này ít dùng.
Bộ Dụng (用) vẽ hình 1 quả chuông (không có núm). Người xưa đặt nó trên bàn làm việc, khi cần “DÙNG” đến lính hầu, người ở thì dùng tay nắm lấy lắc cho kêu. do vậy mà người TQ vẽ cái chuông này để chỉ nghĩa Dùng, sử dụng.
7. Bộ Đấu (斗) vẽ hình 1 cái đấu đong gạo. Người TQ cổ đại đong bằng đấu. Ở miền bắc vẫn dùng đơn vị “đấu” để đong gạo cho đến tận nhưng năm 80 của thế kỷ 20.
8. Bộ Can (干) là cái lá chắn, họăc là dụng cụ dùng để dựng giáo mác thời xưa. Nay đã biến đổi dạng chữ, khó nhận ra, tuy nhiên nó cũng rất đơn giản, chỉ có 3 nét, nên cũng khá dễ nhớ.
Bộ Công (工) vẽ hình cái thước thợ (giống như thước kẹp thợ sắt ngày nay) 1 dụng cụ để lấy góc vuông của người thợ Trung quốc cổ đại. Nếu bạn nào có chuyên môn về xây dựng sẽ dễ dàng hình dung ra hơn.
9. Bộ Thị (示) vẽ hình 1 cái bàn thờ thời tiền sử (họ dùng 1 mặt đá làm mặt bàn, chụm 3 khúc gỗ làm chân), nên bộ Thị hiện nay viết : Nét trên cùng là thức ăn cúng tế, nét ngang thứ 2 là mặt bàn thờ, 3 nét có chiều thẳng là vẽ chân bàn. bộ Thị hiện có 2 cách viết được chấp nhận : 示, 礻 như : 福,社,祭,。。。
10. Bộ Ngọc (玉) vẽ 1 chuỗi ngọc, cổ văn viết chữ Ngọc玉 và chữ Vương 王 giống nhau, sau này người ta mới thêm 1 chấm nhỏ vào bộ Ngọc để phân biệt với chữ Vương. Rất nhiều người học chữ Hán thường nhầm là bộ “Vương”. Thực ra, không hề có bộ Vương, chỉ có bộ Ngọc, bộ ngọc khi nằm trong các chữ Hán phức tạp, có hình dạng của chữ Vương.
Vd : 珍珠, 琥珀, 玻璃, …
Bộ Bối (貝) vẽ hình cái vỏ sò, hai nét dưới cùng là hai cái khớp trên vỏ con sò biển. Người Trung quốc cổ đại trao đổi hàng hóa bằng vỏ sò, họ dùng vỏ sò thay thế tiền. Do vậy, Bối có nghĩa mở rộng là tiền bạc, đồ quý hiếm, của báu. Vd trong tiếng việt : Bảo bối,
Qua 1 thời gian dài biến hình, bộ Bối khó nhận ra được hình dạng vỏ sò, nhưng nó thường nằm trong các chữ chỉ về tiền bạc, 貴賤 quý tiện, 買賣mua bán, 賠償bồi thường v.v

Bài học liên quan

Bài học xem nhiều